Cuộc sống nạn nhân chất độc da
cam bị lãng quên tại Lào
Nhiều thế hệ tại biên giới phía đông của Lào mang trong mình những
dị tật bẩm sinh, nghi do ảnh hưởng của chất độc da cam. Họ là những nạn nhân
chiến tranh chưa được thừa nhận.
Một ngày
nắng như thiêu như đốt hồi tháng 10/2019, Susan Hammond, Jacquelyn Chagnon cùng
Niphaphone Senthong vất vả vượt qua đoạn suối đầy cát sỏi để đến làng Labeng
Khok, phía đông Lào.
Trong thời
gian cao điểm của chiến tranh, Labeng Khok là căn cứ hậu cần được quân giải
phóng Việt Nam sử dụng để tiếp tế cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Giờ đây,
khoảng 400 người đang sống tại làng.
Tại một ngôi
nhà làm từ thanh tre và nứa lá, chủ nhà dùng mảnh bom cũ bằng kim loại để làm
bậc thang đi lên.
Gia đình có một cậu con trai 4 tuổi tên Suk, từ khi sinh ra
đã bị khuyết tật, khiến những hoạt động đơn giản nhất như đi lại cũng gặp khó
khăn.
“Cả cơ thể đứa
bé mềm nhũn, như là không có xương. Đứa nhỏ không thể ngồi thẳng”, một người
bác của Suk nói.
Và Suk không
phải là trường hợp cá biệt trong gia đình. Một người họ hàng khác của Suk bị
câm bẩm sinh và không thể đi lại mãi tới năm bảy tuổi. Trong khi đó, em gái của
Suk qua đời khi mới chỉ lên 2.

Hai
trẻ em bị dị tật bẩm sinh tại khu vực biên giới phía đông của Lào. Ảnh: New York Times.
|
Vùng đất bị quên lãng
Hammond,
Chagnon và Sengthong là ba thành viên cốt cán của tổ chức phi chính phủ War
Legacies Project. Tổ chức được thành lập năm 2018 bởi Hammond, người có cha
từng là cựu binh Mỹ tham chiến ở miền Nam Việt Nam.
Trong khi
đó, Chagnon là một trong những người nước ngoài đầu tiên được cho phép làm việc
tại Lào sau khi chiến tranh trên bán đảo Đông Dương kết thúc. Cô đại diện cho
tổ chức hướng về công bằng xã hội có tên American Friend Services Committee.
Còn
Sengthong là một giáo viên người Lào về hưu, từng là hàng xóm của Chagnon tại
thủ đô Vientiane. Công việc của cô là điều phối các hoạt động của War Legacies
Project tại địa phương. Mục tiêu chính của tổ chức này là ghi nhận lại những
tác động lâu dài của chất độc da cam dioxin, cũng như hỗ trợ nhân đạo tới các
nạn nhân.
Việc sử dụng
chất dioxin tại Lào được Mỹ thực hiện trong bí mật và trên quy mô lớn. Đến nay,
nó vẫn là một trong những chương cuối cùng chưa được công khai trong cuộc chiến
của Washington ở Đông Nam Á.
Hàng chục
năm qua đi, ngay cả trong các ghi chép quân sự chính thức, việc phun chất
dioxin ở Lào chỉ được nhắc đến thoáng qua.
Khi Không quân
Mỹ năm 1982 công bố một phần lịch sử chiến dịch khai quang, có tên Operation
Ranch Hand, ba trang tài liệu về hoạt động trên lãnh thổ Lào hầu như không được
chú ý đến.

Các
trẻ em Lào dị tật bẩm sinh bị nghi do ảnh hưởng của chất da cam. Ảnh: New York Times.
|
Lào đến nay
vẫn là vùng đất bị lãng quên trong toàn bộ bối cảnh cuộc chiến tranh.
Mặc dù vẫn
có một số ghi chép về chiến dịch khai quang ở Lào, quy mô các hoạt động này
chưa bao giờ được thông tin đầy đủ.
Qua quá trình đánh giá, phân tích sâu các ghi chép của Không
quân Mỹ về các nhiệm vụ, cùng phỏng vấn những người sống dọc vùng biên giới, các
chuyên gia mới có thể ước tính sơ bộ ít nhất 2,2 triệu lít chất dioxin được
phun ở Lào trong chiến tranh, dưới danh nghĩa hoạt động khai quang diệt cỏ.
Trong nhiều
năm, War Legacies Project biết về chiến dịch khai quang trên đất Lào, nhưng
không thể tiếp cận những khu vực vùng sâu vùng xa bị chất độc ảnh hưởng.
Tới năm 2017,
khi một dự án đường trải nhựa được hoàn thành, tổ chức này mới có thể đến thăm
thường xuyên các ngôi làng của người Bru, Ta Oey, Pa Kô và Cơ Tu ở biên giới
Việt – Lào. Đó là lần đầu tiên tác động của chất độc da cam với các cộng đồng
dân cư ở đây được đánh giá đầy đủ.
Những nạn nhân chưa được biết tới
Trong tổng số 517 trường hợp khuyết tật và dị tật bẩm sinh
được War Legacies Project ghi nhận ở Lào, khoảng 450 người bị dị tật tứ chi, có
thể quan sát bằng mắt thường, và được xác định có liên quan tới nhiễm chất độc
da cam.
“Khi bắt
đầu điều tra, tôi nói với các quan chức chính phủ Mỹ rằng chính chúng tôi cũng
không biết sẽ tìm thấy điều gì. Thực tế, thâm tâm tôi hy vọng sẽ không tìm thấy
gì cả. Nhưng kết quả là chúng tôi phát hiện quá nhiều trường hợp dị tật”, bà
Hammond nói.
Trong các
trường hợp khuyết tật được War Legacies Project ghi nhận, hơn phân nửa là trẻ
em dưới 16 tuổi. Các em là đời thứ hai, thậm chí là đời thứ ba của những người
nhiễm chất độc da cam trong thời chiến. Những dị tật phổ biến gồm bàn chân
khoèo, sứt môi, hở hàm ếch.
Một số trường
hợp nghiêm trọng hơn, khi nhiều thành viên trong cùng gia đình bị dị tật. Tại
quận Nong, tỉnh Savanakhet, một gia đình có 5 con đều bị mất một bên mắt, hay
một gia đình khác có 5 người bị câm điếc bẩm sinh.

Những
người tại Lào bị khuyết tật ở chân, nghi do ảnh hưởng của chất da cam.
Ảnh: New York Times.
|
Bên cạnh đó,
vô số trường hợp chi ngắn, dị tật ở chân, xương hông dị dạng. Với điều kiện
chăm sóc y tế nghèo nàn ở vùng nông thôn Lào, rất ít trẻ sơ sinh được chẩn đoán
và điều trị các chứng dị tật như vậy.
Tại những ngôi
làng mà các thành viên War Legacies Project ghé thăm, họ được nghe kể về chuyện
thời chiến, mà đến nay vẫn hằn sâu trong tâm trí những người cao tuổi.
Dân làng chỉ
nhớ tới tên những máy bay, như T-28, C-123 hay B-52. Họ không biết ai mang bom
đạn tới, hay thứ sương mờ trắng đục rải xuống đất đai họ là gì.
Tại các ngôi
làng, những nạn nhân đầu tiên của chiến tranh qua đời vì mưa bom bão đạn và nạn
đói đi kèm. Những người sống sót phải trú ẩn trong rừng, hang đá.
“Chúng tôi
sống suốt 9 năm mà không có một hạt gạo”, một già làng nhớ lại.
Mía và cây sả
sống sót sau những chiến dịch phun hóa chất. Riêng cây sắn thì phình to tới mức
dị thường, nhưng lại không thể ăn. Chất độc da cam đã giết chết cành, lá cây
nhưng cũng đồng thời đẩy nhanh sự phát triển của các mô thực vật.
Ông Kalod là
một già làng thuộc dân tộc Pa Kô sống tại Lahang. Trong thời gian chiến tranh,
người dân tại làng ông qua lại hai bên biên giới, tùy vào tình hình ném bom và
phun chất diệt cỏ của Mỹ, ông Kalod nói.
“Chúng tôi cần
được hỗ trợ, cũng như các nạn nhân da cam ở Việt Nam được Mỹ đền bù, hỗ trợ”,
ông Kalod nói.
“Ở Việt Nam, vấn đề nạn nhân da cam nghiêm trọng đến mức
không thể bị làm ngơ. Nhưng ở Lào, số nạn nhân nhỏ hơn nhiều, lại ở các vùng
hẻo lánh”, bà Hammond cho biết thêm.
Lào cần hỗ trợ
Hàng chục năm
sau khi cuộc chiến kết thúc, Mỹ đồng ý phối hợp cùng Việt Nam làm sạch sân bay
Biên Hòa và Đà Nẵng, hai điểm nóng của chất da cam.
Chính phủ và
các tổ chức từ thiện của Mỹ cũng tích cực hỗ trợ cho nạn nhân chất da cam ở Việt
Nam. Từ một di sản đau thương của chiến tranh, việc khắc phục hậu quả chất độc
da cam trở thành cột mốc của tinh thần hòa giải giữa hai nước.
Năm 2019, Cơ
quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) tiếp tục cam kết chi 65 triệu
USD hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam. Số tiền này được chuyển
qua Quỹ Nạn nhân Chiến tranh Leahy, lấy theo tên của Thượng nghị sĩ Patrick
Leahy – một trong các chính trị gia đi đầu các nỗ lực khắc phục hậu quả chất da
cam.
Tuy nhiên, các
chương trình hỗ trợ như vậy cho nạn nhân chất độc da cam tại Lào đến nay vẫn
chưa có.

Người sáng
lập War Legacies Project đề nghị chính phủ Mỹ và Lào công nhận tác động lâu dài
của các chiến dịch khai quang, nhưng tới nay chưa có hiệu quả.
Quốc hội Mỹ
không thể hành động nếu không có tín hiệu rõ ràng từ Lào. Trong khi đó, Lào
cũng không sẵn sàng nếu chưa có dữ liệu khoa học chắc chắn.
Tại thủ đô
Vientiane, các quan chức của USAID thông cảm với nỗ lực của War Legacies
Project, nhưng một số nhân vật cấp cao tại Đại sứ quán Mỹ tại Lào lại không mấy
mặn mà, theo bà Hammond.
“Chúng tôi
không biết tới hoạt động khai quang ở Lào, hay nạn nhân dị tật ở những vùng
phơi nhiễm dioxin. Nhưng nếu có dữ liệu về điều đó, chúng tôi cần được biết và
sẽ thảo luận với chính phủ Lào, để xem có thể giúp đỡ các gia đình nạn nhân
bằng cách nào”, Thượng nghị sĩ Patrick Leahy viết trong một email cho War
Legacies Project.
Tim Rieser, trợ lý của Thượng nghị sĩ Leahy, cho biết Quỹ
Nạn nhân Chiến tranh Leahy rất muốn biết thêm về các nạn nhân chất da cam tại
Lào.
“Rõ ràng những
người có trách nhiệm trong cuộc chiến đã khiến (chiến dịch phát quang ở Lào)
không được biết đến rộng rãi. Tôi cho rằng nếu vấn đề lớn hơn những gì chúng ta
biết, chúng ta sẽ phải tìm cách giải quyết”, ông Rieser nói.
Dẫn nguồn Tạp chí Lào Việt